Đề bài: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Bài giảng Đây thôn Vĩ Dạ – Cô Thúy Nhàn (giáo viên )
Cảnh sắc thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng cho các thi nhân thả hồn để sáng tác nên những vần thơ tuyệt vời. Nếu như bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu luôn tràn đầy sức sống, tươi mát thì thiên nhiên thôn Vĩ trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại mang nét bình dị, nên thơ và thấm đượm. Nỗi buồn day dứt của nhà thơ với hai bức tranh thiên nhiên ở mỗi thời điểm.
Bài thơ được khơi nguồn trực tiếp từ một bức ảnh Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử, trong đó “có mây, có nước, có cô gái chèo đò ngang, có mấy rặng tre, có ánh sáng trắng hay ánh nắng chiếu vào nước” cùng với tình yêu thầm kín mà nhà thơ dành cho nàng đã viết nên những vần thơ đau đớn, xót xa trong những ngày cuối đời cận kề căn bệnh nan y. Đây thôn Vĩ Dạ – một ngôi làng nhỏ bên bờ sông Hương thơ mộng, nơi cô gái mang tên loài hoa ấy đã theo cha về đó sinh sống. Nơi đây là một ngôi nhà vườn tuyệt đẹp đã là nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao thi nhân.
Mở đầu cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp lúc bình minh là hình thức câu hỏi tu từ “Sao em không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi ấy vừa là lời trách móc nhẹ nhàng, vừa là lời mời đến chơi của cô gái thôn Vĩ hay lời tự trách của nhà thơ gợi lên bao trăn trở, trăn trở. Đằng sau đó là cảnh đẹp thiên nhiên với ánh nắng ban mai chiếu trên hàng cau, có khu vườn xanh mướt như ngọc bích:
“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc”
Vừa bước chân vào khu vườn, đập vào mắt tôi là ánh nắng mới – thứ nắng sớm tinh khôi, trong trẻo, không chói chang mà ấm áp, dịu dàng. Trong vườn có hàng cau vươn mình đánh thức ánh nắng mới đầu tiên, vì cau là cây cao nhất ở đó đón được ánh nắng đầu tiên khi mặt trời thức dậy và tỏa nắng. Đi sâu vào bên trong hiện ra một màu xanh mướt như ngọc bích của cây cối. Tính từ “mịn màng” được dùng để miêu tả một không gian chỉ trải dài một màu xanh trong. Chỉ với hai câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên với những từ ngữ chọn lọc, một bức tranh sinh động về nắng mới hiện ra. Nổi bật trên nền bức tranh ấy là hình ảnh người con gái duyên dáng, e ấp sau lũy tre lá trong câu thơ “Lá tre che mặt chữ điền”. Đó là khuôn mặt của một con người cụ thể hay là cách điệu để thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhẹ nhàng, duyên dáng của người con gái Huế xinh đẹp.
Khoảnh khắc bình minh đẹp đẽ buổi sớm mai đã khép lại, mở ra cho người đọc cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong đêm trăng sông với mây, gió, nước trôi, hoa ngô đồng và con thuyền độc mộc:
“Gió theo gió, mây theo mây
…Tiếp tục mang theo mặt trăng đêm nay?”
Hàn Mặc Tử mang trong mình căn bệnh hủi (cùi) kinh khủng, quãng đời còn trẻ lại phải đối diện với những cơn đau của bệnh tật nên trong cảm nhận của nhà thơ luôn có sự chia ly, xa cách với những người thân yêu. Vì vậy những hình ảnh thiên nhiên ở đây cũng nhuốm màu bi tráng của tác giả. Gió và mây là một cặp hiện tượng tự nhiên luôn song hành với nhau, gió thổi đến đâu, mây bay đến đó, nhưng trong con mắt của nhà thơ, đó là sự đối lập của gió và mây mỗi chiều và ngược chiều nhau. Trên trời mây gió tách biệt, dưới nước có những bông ngô đồng khẽ rung rinh theo dòng nước chầm chậm trôi. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân cách hóa đặc biệt khiến dòng nước trở nên xúc động, buồn man mác. Nỗi buồn ấy bắt nguồn từ tâm trạng cô đơn, buồn bã của nhà thơ bởi “Người buồn có bao giờ vui”. Ánh trăng là nguồn cảm hứng, là tri kỉ, là tri kỉ, là nơi trú ngụ cuối cùng của tâm hồn thoát ly thực tại của thi nhân. Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta đã không biết bao nhiêu lần bắt gặp ánh trăng ban đêm, có hàng loạt bài thơ viết về trăng như: Uống trăng, Đà Lạt trăng mờ, trăng sáng, Trăng ngọc, một miệng của trăng, ngủ với trăng, đuổi trăng, say trăng, tự tử… và còn rất nhiều bài thơ nữa nhà thơ gửi gắm tâm tư tình cảm của mình vào ánh trăng. Trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đó là sự tan chảy của ánh trăng trên mặt nước làm cho dòng nước tắm mình trong ánh trăng biến thành một dòng sông trăng mờ ảo lung linh. Có một con thuyền lẻ loi trên dòng sông trăng kia. Đêm nay thuyền có về kịp không? Câu hỏi tu từ gợi lên nỗi băn khoăn của nhà thơ, như bao đêm khác, nhưng từ “hợp thời” lại khiến ta có cảm giác đêm nay ngắn ngủi và nó như một cuộc chạy đua với thời gian của cuộc đời. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng chỉ là những hình ảnh mà nhà thơ tưởng tượng ra để bày tỏ niềm tiếc nuối cho mối tình dang dở, tình yêu tha thiết với cuộc sống và vẻ đẹp của cuộc sống. Khung cảnh thiên nhiên như đông cứng lại, thấm đượm nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ. Càng yêu thiên nhiên sâu đậm, Hàn Mặc Tử càng phải chịu đựng nhiều nỗi đau tinh thần và thể xác. Như L.Tolstoi đã từng nói: “Điều khó nhất là yêu cuộc sống với những đau khổ của nó”.
Như vậy, chỉ bằng những nét chấm phá giản dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, sâu sắc qua con mắt của nhà thơ thiên nhiên xứ Huế xinh đẹp, giấc mơ hiện lên sống động, tràn đầy sức sống nhưng cũng thấm đẫm nỗi buồn đau. bâng khuâng, bâng khuâng. Ai đó đã nói rất đúng: “Nghệ thuật có thể làm nên những bài thơ hay, nhưng chỉ có tâm hồn mới làm nên thơ”. Không có tình yêu thiên nhiên xứ Huế thơ mộng, làm sao Hàn Mặc Tử có thể vẽ nên bức tranh thôn Vĩ đẹp đến thế.
Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 16 tuổi, là một thiên tài, tài năng bộc lộ từ rất sớm. Hồn thơ của ông vừa có nét huyền ảo, vừa có nét trong sáng, thể hiện phong cách thơ đa dạng, phức hợp. Đây Đây thôn Vĩ Dạ có thể coi là một trong những bài thơ hay nhất của ông, tác phẩm đã tạo nên một khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, yên bình nhưng cũng đầy cô đơn của một tâm hồn khao khát yêu, khao khát sống. mãnh liệt.
Đây thôn Vĩ Dạ mở ra với một bức tranh vô cùng nên thơ, mộng mơ với những đường nét lung linh, tươi sáng. Câu hỏi mở đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời quở trách nhẹ nhàng nhưng đầy tình cảm đối với Hàn Mặc Tử. Rồi để mở ra khung cảnh thôn Vĩ thơ mộng, đậm chất Huế:
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Bìa lá trúc ngang hoàn chỉnh kiểu chữ
Không gian quen thuộc và gần gũi với bất kỳ người Việt Nam nào. Những hàng cau cao vút thẳng tắp, chờ đón những tia nắng tinh khôi đầu tiên của ngày mới. Hai từ nắng được lặp lại trong câu thơ mang đến cho người đọc cảm giác ấm áp, trong lành với ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa khắp không gian. Năng lượng mới là mặt trời vừa mọc, không gay gắt, chói chang mà dịu dàng, tinh tế như chính tính cách của những con người xứ Huế mộng mơ. Nắng còn mang đến cho ta cảm giác trong lành, tươi mát. Chuyển điểm nhìn xuống dưới, cả một khung vườn, viên ngọc khổng lồ hiện ra trước mặt. Màu xanh bao phủ khắp nơi, ánh nắng mới chiếu xuống những giọt sương nhỏ li ti tạo thành một khối khổng lồ màu xanh ngọc bích. Thật tuyệt vời và đẹp đẽ làm sao. Nếu như câu thơ đầu mang đến cho người đọc sự trong sáng, tươi mát thì câu thơ này lại mang đến cho ta sự hồn nhiên, béo béo. Chỉ một từ “mướt” đã đánh thức sức sống của vô số loài cây. Kết hợp với biện pháp so sánh của Hàn Mặc Tử đã hoàn chỉnh bức tranh quê đầy sức sống. Nhưng để bức tranh ấy trở nên hoàn thiện hơn, anh cũng không quên điểm vào đó bức chân dung điền viên mờ ảo, không thật. Thật khó để xác định khuôn mặt ở đây là ai, có thể là một cô gái, có thể là một chàng trai thôn Vĩ. Chính sự mơ hồ đó đã làm cho bài thơ thêm ý nghĩa và giá trị. Đồng thời, mặt chữ cũng tạo nên sự hài hòa giữa cảnh vật và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa tự nhiên, đậm chất Huế.
Mở đầu bài thơ là một khung cảnh đẹp đẽ, trong trẻo và thanh khiết, nhưng bỗng hiện ra một bức tranh khác, một bức tranh đẹp nhưng buồn hiu quạnh trong một đêm trăng trên sông:
Gió theo gió, theo mây, theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm
Hai câu thơ đầu vẽ nên một khung cảnh buồn với sự xuất hiện của các sự vật: gió, mây, hoa ngô đồng, dòng sông. Khung cảnh rộng rãi, thoáng đãng nhưng ẩn chứa sự mông lung, xa xăm. Mọi thứ đều tách biệt: Gió theo gió, mây theo mây, như thể không có mối liên hệ nào giữa chúng. Nghệ thuật hùng biện đã nhấn mạnh sự ngăn cách, cũng như khoảng cách. Tưởng gần nhau mà hóa ra xa cách. Dòng sông lặng lẽ trôi trong sự tĩnh lặng của đêm, trong mắt nhà thơ dòng sông trở nên “buồn bã”, bâng khuâng, buồn bã. Nhịp điệu nhẹ nhàng, dịu dàng của hoa ngô đồng dường như càng làm nổi bật thêm sự cô quạnh của cảnh vật, cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Ngoại cảnh chia cắt, phân tán càng xoáy sâu vào tâm hồn nhân vật trữ tình, anh tìm đến vầng trăng để bấu víu. Vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là người bạn tri kỷ của ông:
Mùa thu nhuộm sắc hoa hoàng
Trăng đẫm sương, bóng thiết tha
Hoặc:
Anh ngân nga để mở cánh cửa trái tim
Cho trăng xuân tràn men say
Trong bài thơ này, cả một dòng sông trăng, thuyền trăng để cứu nỗi cô đơn của mình: “Thuyền ai cập bến sông trăng ấy/ Có chở trăng về kịp đêm nay”. Không gian tràn ngập ánh trăng vừa huyền ảo vừa huyền ảo như gợi nhắc về một quá khứ xa xăm, quá khứ tươi đẹp của ông. Nhưng lời thơ như nghẹn lại, thêm khắc khoải “ai ơi? một câu hỏi vang lên mà không có câu trả lời, câu hỏi trở nên vô vọng. Và câu thơ sau tràn ngập niềm băn khoăn đêm nay trăng có về không – một khoảng thời gian quá ngắn. Anh ta dường như đang chạy đua với thời gian để chiến thắng, để được sống. Hai câu thơ đã nói lên niềm khao khát gặp gỡ, niềm yêu đời cũng như nỗi băn khoăn, trăn trở về sự muộn màng, dở dang. Ở khổ thơ này, thiên nhiên đã nhạt nhòa, dường như không còn được phân định rõ ràng và ở khổ thơ cuối ranh giới giữa sự vật và hiện tượng hoàn toàn không còn phân định được: “Nơi đây sương mù mịt mờ hình ảnh/ Ai biết tình ai đậm đà”. Mọi sắc thái đều được đẩy lên đến cực điểm: quá trắng, quá mờ. Khung cảnh như đi vào cõi mộng, cõi hư ảo chứ không còn là cõi thực nữa. Thế giới ở đây và thế giới ngoài kia nhòe nhoẹt, khắc sâu nỗi cô đơn, tuyệt vọng được đẩy lên cao trào của nhân vật trữ tình.
Bằng việc sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa,.. tinh tế, ngôn từ súc tích, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh xứ Huế vừa đẹp, vừa lung linh, huyền ảo, diệu kỳ. . Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy là một tình yêu cuộc sống mãnh liệt, nhưng lại rơi vào tuyệt vọng, bi kịch.
Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:
day-thon-en-da.jsp
Các bộ đề lớp 11 khác