Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

Bạn đang xem: Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa tại thcsdongphucm.edu.vn

Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

4 bài văn mẫu Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa 

Mục lục

I. Dàn ý Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt– Cảm nhận chung về hình ảnh người bà trong bài thơ

2. Thân bài

a. Tác giả đã tái tạo hình ảnh người bà qua những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn và gian lao– Hình ảnh người bà hiện lên gắn với bếp lửa: “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu”.– Những kí ức sống bên bà hiện về như một thước quay chậm– Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả đã khơi gợi thành công những kỉ niệm sống trong vòng tay chở che cùng sự săn sóc của người bà: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”… 

b. Hình ảnh người bà qua những suy ngẫm và cảm nhận trung thực của thi sĩ. – Hình ảnh người bà trở thành biểu tượng cho sự rét mướt của tình thương yêu và săn sóc.– Hình ảnh người bà còn được khắc họa cùng tấm lòng và tình yêu thương “ấp iu nồng đượm”.– Thông qua điệp từ “nhóm”, hình ảnh người bà đã được tái tạo vừa trung thực, vừa chứa đựng ý niệm ẩn dụ của sự hi sinh tảo tần và thiêng liêng.

3. Kết bài

Khái quát về trị giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

 

II. Bài văn mẫu Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

1. Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa, mẫu số 1 (Chuẩn)

“Thương bà cháu nhớ ngày xưaDãi dầu cuối chợ nắng mưa sáng chiềuBiển đời đơn độc mái chèoThuyền bà chống đỡ trăm chiều bão giông”

(“Bà ơi”, Phạm Trung Dũng)

Những câu thơ bình dị của thi sĩ Phạm Trung Dũng đã gợi nhắc tới hình ảnh người bà cùng sự thân yêu, sắp gũi và thiêng liêng trong mối quan hệ về tình cảm gia đình rét mướt. Tình cảm cao đẹp đó còn được thi sĩ Bằng Việt tái tạo đầy xúc động thông qua bài thơ “Bếp lửa”. Bằng những vần thơ mang đậm màu sắc của quá khứ, hoài niệm, hình ảnh người bà đã xuất hiện với sự trìu mến, thân yêu.

Trước hết, mở đầu bài thơ, tác giả đã tái tạo hình ảnh người bà qua những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn và gian lao:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏi,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay!”

Tác giả đã sử dụng từ láy “đói mòn đói mỏi” để mô tả hiện  thực chiến tranh đau thương gắn liền cùng sự thiếu thốn và nhọc nhằn – hệ lụy của chính sách thống trị tàn nhẫn của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Trong những năm tháng gian truân đó, hình ảnh người bà hiện lên gắn với làn khói từ bếp lửa: “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu”. Dù thời gian qua đi nhưng ấn tượng về những năm tháng đã qua vẫn còn đọng lại qua việc sử dụng từ “cay”. Và những kí ức sống bên bà hiện về như một thước quay chậm:

“Mẹ cùng cha công việc bận không về,Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà nặng nhọc”

1hBN cam nhan ve hinh anh nguoi ba trong bai tho bep lua

Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa, văn mẫu tuyển lựa chọn

Dù biết bao mùa tu hú đi qua, thi sĩ vẫn không thể quên được hình ảnh người bà tảo tần nắng mưa. Những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi đã diễn tả thành công những năm tháng tuổi thơ trong khói lửa chiến tranh. Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả đã khơi gợi thành công những kỉ niệm sống trong vòng tay chở che cùng sự săn sóc của người bà: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”… Mỗi một câu thơ vang lên đều chất chứa những hồi ức về sự hi sinh tảo tần của người bà. Trong những năm tháng “Mẹ cùng cha công việc bận không về”, bà là chỗ dựa ý thức, là cội nguồn yêu thương chất chứa sự săn sóc, quan tâm. Những câu thơ của thi sĩ Bằng Việt đã gợi nhắc tới hình ảnh người bà trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của nữ sĩ Xuân Quỳnh:

“Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về ngủ mơGiấc ngủ hồng sắc trứng”

tiếp nối mạch xúc cảm của những hồi ức đã qua là hình ảnh người bà qua những suy ngẫm và cảm nhận trung thực của thi sĩ. Hình ảnh người bà luôn gắn liền, song hành sóng đôi cùng những kỉ niệm bên bếp lửa và trở thành biểu tượng cho sự rét mướt của tình thương yêu và săn sóc:

“long đong đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, tới tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

thế cuộc chứa đựng sự long đong, vất vả toan lo của người bà đã được tái tạo thành công thông qua giải pháp đảo ngữ, đưa tính từ “long đong” lên đầu câu, kết  hợp những cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm rồi”. Xuôi dòng thời gian, dù cuộc sống không ngừng thay đổi, người bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” để nhóm lên niềm tin yêu cùng những hy vọng trong tâm tưởng người cháu. Qua từng câu chữ, chúng ta có thể thấy được tình cảm vừa giản dị, thực tình, vừa tha thiết sâu nặng của người cháu đối với người bà. Hình ảnh người bà còn được khắc họa cùng tấm lòng và tình yêu thương “ấp iu nồng đượm”:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”

Thông qua điệp từ “nhóm”, hình ảnh người bà đã được tái tạo vừa trung thực, vừa chứa đựng ý niệm ẩn dụ của sự hi sinh tảo tần và thiêng liêng. Đối với tác giả, người bà chính là kết tinh cao đẹp nhất của tình thương yêu “ấp iu nồng đượm”, là biểu tượng ngời sáng sự sẻ chia, quan tâm và săn sóc “chia sẻ ngọt bùi”, là người bồi đắp tâm hồn cháu trong những năm tháng tuổi thơ. Những câu thơ với âm điệu tha thiết đã khắc họa thành công hình ảnh người bà luôn hiện hữu trong tâm tưởng, đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, hàm ân của tác giả Bằng Việt.

tương tự, bằng những câu thơ bình dị mang âm hưởng tha thiết, sâu lắng, thi sĩ đã khắc họa bức chân dung người bà gắn với hình ảnh bếp lửa trong dòng suy tưởng, chiêm nghiệm chứa đựng lòng hàm ân, yêu kính và trân trọng. Thông qua hình ảnh người bà, chúng ta có thể thấy được những đức hi sinh, sự tảo tần của những người bà, người mẹ trong những năm tháng lửa đạn bom rơi.

2. Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa, mẫu số 2:

Từ lâu, những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ đã khơi nguồn xúc cảm dồi dào, vô tận cho biết bao những người nghệ sĩ để sáng tác lên những bài văn hay, những bài thơ tuyệt mĩ về người bà, người mẹ. Và Bằng Việt, với bài thơ “Bếp lửa” cũng đã góp một tiếng thơ tuyệt mĩ ấy về hình ảnh người bà – một người phụ nữ nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương con, thương cháu tha thiết.

Bài thơ ra đời năm 1963, lúc đó Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, vì vậy thi phẩm là dòng hoài niệm về những kỉ niệm thời thơ ấu được sống trong sự săn sóc, yêu thương của bà và bên bếp lửa thân yêu. từ đó, người cháu thể hiện lòng yêu kính, sự trân trọng, hàm ân đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê hương, quốc gia.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn xúc cảm nỗi nhớ, hồi ức về người bà yêu kính. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng xúc cảm hồi ức ấy được khởi đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa lẩn vẩn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắm mưa.

Hình ảnh bếp lửa “lẩn vẩn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng lẩn vẩn trong tâm trí , trong nỗi nhớ khiếp sợ của thi sĩ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi ức thương nhớ của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

cam nhan ve hinh anh nguoi ba trong bai tho bep lua 1

Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự chuyên cần, chịu thương chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm thực tình, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm hàm ân sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Sống trong thời buổi chiến tranh tao loạn, biết bao gia đình phải li tán, thậm chí là sinh li tử biệt. Và Bằng Việt, một đứa trẻ phải sống dưới làn bom, mũi súng của quân thù cũng đã phải chịu viễn cảnh cha, xa mẹ từ nhỏ. Bởi cha mẹ Bằng Việt cũng tham gia cách mệnh, vì vậy tất cả mọi thứ ở quê nhà, Bằng Việt đều sống trong tình yêu thương, bao bọc chở che của người bà yêu kính. Cho nên với Bằng Việt, bà là nơi giữ gìn tổ ấm, là chỗ dựa vững chắc giàu tình yêu thương, niềm tin tưởng, nuôi dạy Bằng Việt lớn khôn, trưởng thành suốt những năm ròng rã kháng chiến:

Mẹ cùng cha công việc bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà nặng nhọc,Tu hú ơi! chẳng tới ở cùng bà…

Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà dạy dỗ, dạy dỗ và chăm cháu học. những động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương mông mênh, chu đáo của người bà dành cho người cháu. vì vậy , bà trở thành ngọn nguồn rét mướt, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự phối hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công việc của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn khắc cốt ghi tâm đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà nặng nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm hàm ân sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình. Trong những năm quốc gia có chiến tranh, những trở ngại, khốc liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiláng giềng bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nỗi khổ sở, đớn đau khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn lặng thầm chịu đựng, tự gắng gượng gạo đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, viện trợ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà tác động tới công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng quốc gia để đánh đuổi giặc giã xâm lược, đem lại bầu trời tụ do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quí biết bao của người bà. vì vậy, tới đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Cho nên, tới đây chúng ta thấy tấm lòng của người thật rộng lớn mênh mông không chỉ dành riêng cho con cho cháu mà còn cho tất cả mọi người, cho quê hương, quốc gia tươi đẹp này.

Sau những đoạn thơ hồi ức về thời thơ dại được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về thế cuộc của bà qua hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dằng dai…

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi tới “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn thuần chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh tới sự sống dằng dai bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. vì vậy, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ tiếp nối.

Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của người bà: tảo tần, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:

long đong đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, tới tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và tiêng liêng – bếp lửa!

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên thế cuộc của người bà vất vả, gian truân, long đong nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. tới đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu tương đối ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người thôn xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, quốc gia của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” phối hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ thế cuộc bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Cho nên dù giờ đây, dẫu cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi, trắc trở “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn túc trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dằng dai” bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì vậy nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu thỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm ước vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, quốc gia.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào xúc cảm. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp độ thơ linh hoạt; phối hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm thơ dại của người cháu và cả tấm chân tình của thi sĩ đối với người bà yêu kính: tảo tần, chịu thương chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh, lòng vị tha và sự chưng ái. Đó cũng là người bà trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, là bao người mẹ, người chị dịu dàng, đằm thắm đã tô đậm trang sử vàng chói lọi của truyền thống người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Khép lại bài thơ, hình ảnh người bà vẫn cứ lặng lẽ tỏa sáng, nhóm lên trong lòng người đọc tình cảm mến yêu, kính phục và cả lòng hàm ân sâu sắc.

Trên đây là phần Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa bài tiếp theo, những em chuẩn bị trả lời thắc mắc SGK, Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa và cùng với phần Bình giảng ba khổ thơ đầu bài Bếp lửa để học tốt môn Ngữ Văn lớp 9 hơn.

 

3. Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa, mẫu số 3:

Bạn đã bao giờ đắm chìm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi tâm hồn? Với Bằng Việt, có nhẽ bóng vía thân yêu của người bà bên bếp lửa đã thấm đẫm trang kí ức tuổi thơ. Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái tạo trung thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc thế nào? Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa mình vào tương đối ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ trước tiên:

“Một bếp lửa lẩn vẩn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Dòng xúc cảm trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “lẩn vẩn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình yên, êm đềm bên ngọn lửa rét mướt? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ kế bên bà là cuộc sống có rất nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay!”

Những dòng thơ trung thực tới khiếp sợ, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn lưu giữ mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để tới bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cay vì khói bếp, cay vì xúc cảm sống dậy những mùi khói của mấy chục năm qua. Không thể không nhận thấy sức khiếp sợ, lay động trong tâm hồn cháu trong khi dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn lặng thầm tích góp tương đối ấm nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, tới tận “tám năm ròng rã”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:

“Mẹ cùng cha công việc bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”

cam nhan ve hinh anh nguoi ba trong bai tho bep lua 2

Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa để thấy được tình cảm của tác giả dành cho bà

Trong sương khói mịt mù của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, chở che, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường nhật nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng rã” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà nặng nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa ý thức, là sự chu đáo, đùm bọc dành cho cháu. tương đối ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quên hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàm xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bốMày có viết thư, chớ kể này, kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Thật vậy! Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi toan lo để những con yên tâm công việc với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên. Đó không phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mệnh đó ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên trung thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dằng dai…long đong đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, tới tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin vô cùng “dằng dai”, dai sức và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm thương nhớ, ơn nghĩa. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi tới những chân trời mới mẻ, hạnh phúc. Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Đứng trong những điều mới mẻ của toàn cầu rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là lợi thế, là chỗ dựa ý thức vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa tương đối ấm trong tâm hồn người cháu.

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn học”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vẫn thơ thấm đẫm xúc cảm của Bằng Việt nhịn nhường như trong người nào cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô. Bằng Việt cũng mang những xúc cảm đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng xúc cảm trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân yêu của người bà.

 

4. Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa, mẫu số 4:

Bằng Việt là thi sĩ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp, những năm tháng xa quê ở nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc thi sĩ viết nên bài thơ Bếp Lửa và những cảm nhận về tình bà cháu thấm thía, sâu sắc thiêng liêng. Và hình ảnh người bà đã sống mãi trong lòng người đọc về một người phụ nữ Việt Nam lặng thầm hi sinh, yêu thương cao cả và là ngọn lửa bất diệt của niềm tin cho người cháu yêu thương của mình, khơi dậy trong lòng chúng ta niềm xúc động nghẹn ngào về tình bà cháu thiêng liêng, cao đẹp.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa lẩn vẩn sương sớm, ấp iu nồng đượm gắn liền với hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương. Người bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, thận trọng tích góp từng tương đối ấm lúc quốc gia đang trong cảnh đói kém, tao loạn. Bà vẫn lặng thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già lão của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là măng non tương lai của quốc gia để mong phát triển dân tộc. tới những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ. Bà giống như người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, săn sóc và dạy dỗ cháu từng ngày. có nhẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương chở che của người bà.

cam nhan ve hinh anh nguoi ba trong bai tho bep lua 3

Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

Bà cũng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ, đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nỗi đau và những khốn cùng túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu phương vững chắc nơi tiền tuyến. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình chung lên trê, đó không phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mệnh đó ư. Bằng việt nhịn nhường như dã thổi tới tâm hồn người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà.

Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà hiện lên càng trung thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng của toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt. Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa rét mướt của thực tế, những hơn hết bà cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm kết đoàn với tình làng nghĩa xóm. tương tự, trái tim của bà chính là ngọn lửa của niềm tin, của thắng lợi của những tình cảm yêu thương và những kỉ niệm thơ dại làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này. Để rồi dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn khôn nguôi nhắc nhỏ “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.

tương tự, bằng tài năng và tấm lòng chân tâm thực ý, thi sĩ Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà thật đẹp và thiêng liêng như ánh sáng của ngọn lửa bất diệt trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà nhắc ta về tình bà cháu thiêng liêng, về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam yêu nước sẵn sàng hi sinh vì lợi ích tư nhân để vì ý thức dân tộc.

—————-HẾT—————-

Ngoài nội dung ở trên, những em có thể tìm hiểu thêm phần tìm hiểu hình tượng người bà trong bài Bếp lửa là một nội dung liên quan mà những em cần nắm vững.

Bản quyền bài viết thuộc THPTSocTrang.Edu.Vn. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: thptsoctrang.edu.vn

Bạn thấy bài viết Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa bên dưới để Trường THCS Đồng Phú có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thcsdongphucm.edu.vn của Trường THCS Đồng Phú

Nhớ để nguồn bài viết này: Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa của website thcsdongphucm.edu.vn

Chuyên mục: Văn học

Xem thêm bài viết hay:  cảm tưởng về tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

Viết một bình luận