Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà văn nào? Nếu bạn đọc chưa có câu trả lời chính xác, mời theo dõi bài viết dưới đây do trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong biên soạn.
Mục lục
Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà văn nào?
Phan Ngọc Hoan tên thật là nhà văn Chế Lan Viên. Nhà thơ, nhà văn Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Đảng cộng sản Việt Nam. Mất ngày 24 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phan Ngọc Hoan tên thật là nhà văn Chế Lan Viên
Có thể coi Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Năm 1927, khi ông lên 7 tuổi, cả gia đình ông vào Bình Định. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, khi đỗ Thành Chung thì thôi học đi dạy tư để kiếm sống. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút hiệu Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay Điệu ru, với lời tựa và tuyên bố nghệ thuật là “Trường thơ Loan”. Từ đây, tên tuổi Chế Lan Viên vang danh trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là “tứ bạn bàn” của Bình Định. Năm 1939, ông tốt nghiệp ở Hà Nội. Sau đó, Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi dạy học ở Thanh Hóa, Huế. Năm 1942, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Những bụi gai lửa, tập Những ngôi sao vàng và tập thơ triết lý về cuộc đời mang màu sắc siêu hình, huyền bí.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông tham gia phong trào Việt Minh ở Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn Kiến thiết cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên đã viết bài và biên tập các báo Cứu quốc, Kháng chiến, Quyết thắng của Trung ương Việt Minh. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông làm tạp vụ ở Liên khu IV, khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn – đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần sang trường phái hiện thực.
nhà thơ, nhà văn Chế Lan Viên
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc hoạt động văn nghệ tại Hà Nội. Ông làm biên tập viên cho báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương và cuối năm 1958 về làm biên tập tuần báo Văn nghệ (sau này là Văn nghệ). Từ năm 1963, ông là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là Đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII, Ủy viên Ủy ban Thống nhất của Quốc hội khóa IV, V.
Đời tư của nhà văn Chế Lan Viên
Chế Lan Viên kết hôn lần đầu năm 1943 với bà Nguyễn Thị Giao, con một phú ông, dưới sự gợi ý và tư vấn của nhà thờ Quách Tấn. Chính Quách Tấn cũng là người đã sắp đặt và giúp đỡ hai người nên duyên vợ chồng khi gia đình cô giáo có ý ngăn cản vì Chế Lan Viên không nghề nghiệp. Hai người có ba người con là Phan Lại Triều, Phan Trường Định và Phan Thị Chân Thanh. Tuy nhiên, sau một thời gian chung sống hạnh phúc, cuộc hôn nhân gặp sóng gió khi Chế Lan Viên sang Trung Quốc chữa bệnh và hai người ly hôn vào năm 1959.
Chế Lan Viên kết hôn lần thứ hai vào năm 1961 với nhà văn Vũ Thị Thường (tên thật là Lê Thị Kim Nga), sinh năm 1930 tại thôn Tả Thanh Oai, xã Đại Thành, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Bà hoạt động tích cực trong ngành tạp chí và phong trào phụ nữ, tác giả truyện ngắn Cái hom giỏ đoạt giải A cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1958. Cuộc hôn nhân cũng được sắp đặt bởi bà mối của một người bạn khác, một nhà văn. Nguyễn Thành Long (tác giả Lặng lẽ Sa Pa). Ông bà Thường có hai người con là Phan Thị Thắm và Phan Thị Vàng Anh. Sau khi Chế Lan Viên qua đời, bà Thương là người sưu tầm và sáng tác những bài thơ chưa xuất bản của Chế Lan Viên để xuất bản thành 3 tập Di cảo thơ.
Phong cách Chế Lan Viên
Con đường thơ của Chế Lan Viên “trải qua nhiều biến động, nhiều khúc quanh với sự phấn đấu, tìm tòi không ngừng của nhà thơ”, thậm chí có một thời gian dài im ắng (1945-1958).
Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ Chế Lan Viên đúng là một “trường thơ loạn” toàn cầu: “kinh hoàng, bí ẩn, bế tắc của thời kỳ Suy tàn với xương máu, đầu lâu, cảnh đổ nát, tháp Chàm”. tháp là nguồn cảm hứng đáng chú ý của Chế Lan Viên Qua cảnh hoang tàn đổ nát, rùng rợn trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của một vương quốc hùng mạnh trong thời hoàng kim, cùng với nỗi hoài niệm của nhà thơ.
Sau Cách mạng Tháng Tám, thơ ông “đi vào đời sống nhân dân, đất nước, thấm nhuần ánh sáng cách mạng” và có những chuyển biến rõ nét. Giai đoạn 1960-1975, thơ Chế Lan Viên đạt đến khuynh hướng sử thi anh hùng, chính luận, đậm tính thời sự. Sau 1975, “thơ Chế Lan Viên dần trở về với cuộc sống trần thế và sự náo động của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và muôn thuở của cuộc đời”.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất trong sáng và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ thể hiện ở khuynh hướng tư duy-triết học. “tư duy triết luận mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình tượng thơ được tạo nên bởi một nhà văn thông minh, tài hoa” Khai thác triệt để các mối quan hệ tương phản. Và nổi bật nhất là khả năng tạo hình phong phú, độc đáo, mang nhiều ý nghĩa tượng trưng.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất trong sáng và độc đáo
tác phẩm của nhà văn, nhà thơ Phan Ngọc Hoan
Những tác phẩm thơ của nhà văn Chế Lan Viên
- Hoang tàn (1937)
- Anh em thân mến (1954)
- Ánh Sáng Và Phù Sa (1960)
- Hoa mỗi ngày
- hải âu (1967)
- Bài thơ chống giặc (1972)
- Đối thoại mới (1973)
- Hoa trước lăng (1976)
- Lựa chọn theo mùa (1977)
- Hoa Trên Đá (1985)
- Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985)
- Di chúc I (1994)
- Di tích II (1995)
Nhật ký của nhà văn Chế Lan Viên
- Sao Vàng (1942);
- Thăm Trung Quốc (1963)
- Những Ngày Nóng Bỏng (1966)
- Giờ của thành phố (1977)
Tiểu luận, phê bình, trao đổi chuyên môn
- Nói Chuyện Văn Chương (1960)
- Phê Bình Văn Học (1962)
- Vào nghề (1962)
- Suy nghĩ và Bình luận (1971)
- Bay trên con đường đất nước đang bay (1976)
- Suy nghĩ theo dòng mở (1981)
- Từ tháp Khuê Văn đến nhà hàng Trung Tân (1981)
bút danh khác của nhà văn Chế Lan Viên
Ngoài bút danh Chế Lan Viên (được hiểu là tác giả tự nhận mình là một bông lan trong vườn nhà họ Chế – dòng dõi hoàng tộc của người Chăm trên đất nước Chămpa xưa), trong phần giới thiệu về tuyển tập. Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu, đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958, ông ký dưới bút danh Thạch Hãn (tên một dòng sông ở tỉnh Quảng Trị, quê hương ông). Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản tại Hà Nội trước tháng 5-1975, ông cũng ký dưới bút danh này.
Từ năm 1959 đến năm 1963, khi làm biên tập báo Văn học, phụ trách mục Bàn luận văn thơ và giải đáp thắc mắc của bạn đọc, ông ký bút danh Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học xuất bản hai tập Vào nghề và Nói thơ của Chàng Văn.
Trên mục Nụ cười xuân của báo Văn nghệ, Chế Lan Viên có hai bài ngắn Ngô Bội Kiều và Lý Đồ Gòn, ký tên Oah (tức Hoan).
tương tự, trong sự nghiệp văn chương của mình, Chế Lan Viên có 4 bút danh.
************
Hi vọng qua bài viết trên mọi người đã biết nhà văn Phan Ngọc Hoan là ai.
Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong
Danh mục: Tổng hợp
Bản quyền bài viết thuộc về THPT Sóc Trăng.Edu.Vn. Mọi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: thptsoctrang.edu.vn
Bạn thấy bài viết Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà văn nào? có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà văn nào? bên dưới để Trường THCS Đồng Phú có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thcsdongphucm.edu.vn của Trường THCS Đồng Phú
Nhớ để nguồn bài viết này: Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà văn nào? của website thcsdongphucm.edu.vn
Chuyên mục: Văn học