Mục lục
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn hay nhất (dàn ý – 2 bài văn mẫu)
Đề bài: Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh.
Bài giảng: Đập đá ở Côn Lôn – Cô Phạm Lan Anh (giáo viên )
Dàn ý Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
I. Phần mở đầu: Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
– Tác giả Phan Châu Trinh quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam. Ông là một trong những chiến sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX.
– Tác phẩm “Đập đá Côn Lôn” (Bài thơ “Đập đá Côn Lôn” đã dựng lên hình ảnh cao đẹp, dũng cảm của người anh hùng cứu nước, dù gặp bước gian nguy nhưng vẫn không nản chí); Bài thơ cũng thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ Phan Châu Trinh).
II. Thân bài: Phân tích chi tiết bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
– Hình ảnh dũng cảm, khí phách của người anh hùng được thể hiện qua việc đập đá:
+ Giọng văn đầy hiên ngang, cao cả của ý chí làm người đầy kiêu hãnh và khát vọng hành động mãnh liệt.
+ Hình ảnh người quản ngục đẹp và uy nghiêm. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng trong tư thế hiên ngang, vươn lên ngang tầm vũ trụ, biến công việc lao động gian khổ thành chiến công chinh phục con người đầy sức mạnh kỳ diệu.
+ Nhặt búa đập phá
+ Đá bể
– Ý chí chiến đấu quật cường của người chiến sĩ cách mạng trong tù
+ Những tháng ngày khó khăn chỉ càng làm cho tôi thêm kiên cường, cứng cỏi, tôi luyện ý chí chiến đấu.
+ Tự thấy mình là người có bản lĩnh cứng cỏi, trung thành, không nhụt chí, thay lòng đổi dạ trước gian nan, thử thách. Sức chịu đựng mạnh mẽ cả về thể chất và tinh thần. Thể hiện sự bất khuất khi đối mặt với nguy hiểm. Trung thành với lý tưởng yêu nước
+ Người có gan làm việc lớn khi vào tù chỉ là việc nhỏ. Tự hào, hãnh diện với công việc mình theo đuổi.
III. Phần kết luận:
– Tóm tắt nội dung cơ bản và giá trị nghệ thuật của “Đập đá” ở Côn Lôn
Phân tích bài thơ Đập đá Côn Lôn – văn mẫu 1
Ngoài vai trò là một nhà hoạt động cách mạng, Phan Châu Trinh còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ. Bài thơ “Đập đá Côn Lôn” được ông sáng tác trong thời gian bị đày ải trên đảo Côn Lôn đã thể hiện khí phách quật khởi của một người tù cách mạng.
Được mệnh danh là “địa ngục trần gian”. Chính quyền thực dân đã biến nơi đây thành nơi giam giữ các chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Nhưng kẻ thù chỉ có thể làm nhục thể xác của họ chứ không phải ý chí của họ. Những câu thơ mở đầu gợi ra tư thế của một người đàn ông như một người đàn ông:
“Là một chàng trai đứng giữa Côn Lôn,
Hào kiệt làm núi đổ”
Đất Côn Lôn xa xôi, khí hậu khắc nghiệt. Côn Lôn có thể coi là vùng đất chết, hủy diệt cuộc sống của con người. Giữa vùng đất tử khí ấy, kẻ làm trai phải khẳng định tư thế của mình. Từ “lộng lẫy” kết hợp với hình ảnh “làm núi lở” thể hiện sự bình đẳng của con người trước núi rừng. Tư thế của người tù thật đĩnh đạc, đĩnh đạc, kiêu hãnh, ngạo nghễ của một bậc anh hùng trong trời đất.
Chỉ hai câu thơ sau nhà thơ đã đi vào miêu tả cụ thể việc phá đá ở Côn Lôn. Đối với nhà thơ, đây là một trong những biểu hiện của con người giữa đất trời:
“Cầm búa đập năm bảy cọc
Đập vỡ vài trăm viên đá bằng tay của bạn.”
Các cụm động từ “vác búa”, “cầm” đứng đầu câu tạo giọng điệu khỏe khoắn, đầy sức sống. Cùng với đó là các động từ “đập”, “đập” để diễn tả sức mạnh. Kết hợp với những con số chỉ số lượng “mấy bảy cọc”, “mấy trăm hòn đá” càng làm tôn lên sức mạnh vũ bão ấy. Cả hai câu thơ đều hừng hực khí thế, dường như sẵn sàng đập tan những gì cứng rắn nhất. Tôi cảm thấy như trong hành động đập đá của người lao động khổ sai đó có một ý chí và một sức mạnh vô địch.
Tinh thần và chí khí của người tù khổ sai ấy được nâng lên thành lời hứa chắc nịch:
“Những ngày giữ gìn thân sành sỏi,
Nắng mưa thêm bền bỉ dũng cảm”
Một “tháng” là một khoảng thời gian dài, liên tục từ ngày này sang ngày khác. Nói về ngày tháng lúc này, nhà thơ đang nói về những ngày ở Côn Lôn. “Biết thân” là thân phận của người tù nô lệ. Nhưng cụm từ “bảo vệ” đứng giữa câu thơ như một lời khẳng định chắc nịch về tinh thần không sợ hãi của người quản ngục. Còn “nắng mưa” là hiện tượng tự nhiên, nhưng ở đây được hiểu là những hiểm nguy của cuộc sống tù đày Côn Đảo. Nắng mưa có thể bào mòn đá núi nhưng không thể làm mòn lòng người tù cách mạng. Câu “Dạ sắt son” có nghĩa là lòng rắn như sắt, đỏ như son, chung thủy như nhất. Mưa hay nắng, nó không bao giờ thay đổi. Hai câu thơ diễn tả sự chịu đựng, thử thách như một lời tự khẳng định, một lời thề thiêng liêng.
Bài thơ kết thúc bằng lời khẳng định:
“Kẻ vá trời lỡ bước,
Thật khó để kể câu chuyện của con trai bạn?”
Đối với người tù này, hoàn cảnh bị cầm tù chỉ là phút giây lưu lạc, gặp tai họa trên đường hoạt động cách mạng. Họ tự gọi mình là “thợ vá trời”. Bài thơ làm ta liên tưởng đến câu chuyện Nữ Oa vá trời. Hóa ra những người đập đá tạc núi đằng kia lại là những người đang mài đá vá trời, gánh vác vận mệnh quốc gia, dân tộc. Họ không phải là những người lao động khổ sai bình thường.
Như vậy, “Đổ đá Côn Lôn” là một bài thơ hấp dẫn. Với khí phách kiêu hãnh, ngạo nghễ, người tù đã khẳng định bản lĩnh cách mạng của mình, với niềm tin vào tương lai tốt đẹp của đất nước.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – văn mẫu 2
“Đổ đá Côn Lôn” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Phan Châu Trinh. Qua bài thơ, nhà thơ muốn nhấn mạnh đến dòng chảy dồi dào của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam.
Phan Châu Trinh là một trong những nhà cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Bài thơ “Đập đá Côn Lôn” làm trong thời gian Người bị lưu đày trên đảo Côn Lôn thể hiện khí phách hiên ngang, dũng cảm ngang tầm với người chiến sĩ trong thần thoại.
Chắc hẳn không ai chưa từng nghe đến cái tên nhà tù Côn Đảo – nơi được mệnh danh là địa ngục trần gian. Chính quyền thực dân Pháp đã sử dụng nơi đây với mục đích giam giữ các nhà cách mạng của dân tộc. Chúng không chỉ tra tấn họ bằng cực hình mà còn bắt họ lao động khổ sai. Trong số đó, đập đá là một trong những nghề vất vả nhất. Tuy nhiên, người tù cách mạng vẫn hiện lên với vẻ đẹp hào hoa, phong thái hiên ngang của một anh hùng cứu nước. Bốn câu đầu của bài thơ miêu tả cảnh đập đá của người tù, đồng thời cũng bằng những hình ảnh đó đã khắc họa được vóc dáng phi thường của người nam anh hùng:
“Làm trai đứng giữa Côn Lôn”
Ở câu mở đầu, tác giả phác họa khung cảnh không gian, gợi âm hưởng oai hùng với tư thế kiêu hãnh, ngang tàng của “chàng trai” số phận – đầu đội trời, chân đạp đất. Ông cha ta cũng có câu: “Làm trai phải đáng là trai”. Nguyễn Công Trứ viết:
“Chí là trai Nam, Bắc, Tây, Đông
Lãng phí sức lực vùng vẫy trong bốn bể”
Điều đó cho thấy quan niệm trọng nam khinh nữ có cội nguồn trong quan niệm sống và giao tiếp. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh, quan niệm ấy được khẳng định trong một ngữ cảnh cụ thể: “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn” là “đứng giữa” biển – trời – đất. vị thế người chủ đất nước.
Ba câu thơ tiếp theo, thông qua những hình ảnh chân thực miêu tả công việc nặng nhọc (khai thác đá), tác giả đã khắc sâu vào những hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh dời núi, lấp núi của con người. đối tượng trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho ta hình dung ra hình ảnh người anh hùng với sức mạnh kì diệu trong trận mạc: “cầm búa”, “xuất binh”; và những chiến công “lừng lẫy” “long trời lở đất”, “đập năm bảy đống”, “đập mấy trăm đảo”. Những từ ngữ cực tả đầy uy lực đã làm nổi bật hình ảnh con người trong tư thế ngạo nghễ, to lớn như vũ trụ. Giữa biển trời bao la, sừng sững một tượng đài có hình thù dị thường.
Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng:
“Trong nhiều tháng và nhiều năm, những người sành sỏi về quả thông,
Nắng mưa thêm bền.
Kẻ lỡ bước vá trời,
Thật khó để kể câu chuyện của con trai bạn”
“Thân tri kỷ” và “thủy chung son sắt” sẽ trường tồn cùng “tháng ngày”, “mưa nắng”. Sự tương phản ở câu thứ 5 và câu thứ 6 đã thể hiện ý chí quyết tâm, chí khí của người cách mạng dù trong bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng trung nghĩa, “có công mài sắt, có tì vết” (Nguyễn Trãi) còn là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Kiên định với “lực bất tòng tâm”, kiêu ngạo là lẽ sống, là phẩm cách của kẻ sĩ không xả thân vì việc chung. Phan Châu Trinh cũng xuất thân từ Nho giáo, qua những câu thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà Nho đã được thấm nhuần tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng. Trong bối cảnh gian nan, thử thách đầu thế kỷ XX, những kẻ sĩ dám dấn thân vì giang sơn xã tắc cũng phải là những người bất chấp hy sinh, hiểm nguy, quên mình. Đôi khi bạn vẫn phải biết gồng mình lên, vượt qua hoàn cảnh bằng ý chí. Hai chữ “vá trời” lấy từ truyền thuyết Nữ Oa vá trời. Tầm vóc và sức mạnh ở đây đã được thi vị hóa một cách kỳ diệu, giống như Nữ Oa trong truyền thuyết đeo đá vá trời. Hình ảnh “những người vá trời” vừa chân thực, vừa bay bổng, khoa trương. Thực ở mức độ liên tưởng đến hình ảnh người tù khổ sai đập đá long trời lở đất được miêu tả trong bốn câu thơ đầu. Bay bổng, sang chảnh chẳng khác gì những nhân vật trong truyện cổ tích. Hai câu thơ cuối này diễn tả sự tương phản giữa cái vĩ đại, vi diệu (của trời vá đất) và cái thực tế khó khăn chỉ là “chuyện con nít”. Sự đối lập ấy là kết quả của một ý chí sắt đá, của một niềm tin lớn lao vào một chính nghĩa, của người vá trời bằng sức mạnh của đá, đá có thể đè bẹp mọi chướng ngại gian khổ. Thực ra những khó khăn mà tác giả đang gặp phải không hề “con nít” mà chỉ có như vậy, với ý chí quật cường được tích tụ từ cội nguồn dân tộc, người lính mới có thể bước tiếp trên con đường dài. chông gai phía trước. Bản thân nó cũng là một chiến thắng.
Bài thơ “Đổ đá Côn Lôn” đã góp phần làm nên dòng chảy dồi dào của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam.
Xem thêm các bài văn mẫu thuyết minh, phân tích, lập kế hoạch tác phẩm lớp 8:
Mục Lục Văn Mẫu | Ngữ văn hay lớp 8 theo từng phần:
dap-da-o-con-lon.jsp
Các bài văn lớp 8 khác