Đề bài: tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm
2 bài văn mẫu tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm
Mục lục
I. Dàn ý tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu về Ngô Thì Nhậm và tác phẩm “Chiếu cầu hiền”
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh ra đời của Chiếu cầu hiền:– Viết vào khoảng năm 1788-1789– Theo lệnh của Vua Quang Trung, nhằm kêu gọi những người hiền tài ra cộng sự, giúp vua xây dựng nước nhà
b. Vai trò, vị trí của người hiền tài:– Người tài như sao sáng trên trời, tài năng phải được sử dụng giúp đời, hiền tài phải phò trợ cho thiên tử.– những bậc hiền sĩ lại ở ẩn khi thời thế suy vi, quốc gia nhiều biến cố– Có người ra làm quan thì cũng không dám lên tiếng, sợ hãi, họ như những người ” chết trôi trên cạn” để mà trốn tránh việc đời…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm tại đây.
II. Bài văn mẫu tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm
1. Bài văn mẫu tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, mẫu số 1 (Chuẩn):
Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746, là người Thanh Trì, Hà Nội. sinh tiền, ông từng làm Đông đốc trấn Kinh Bắc dưới thời chúa Trịnh, sau khi nhà nhà Lê- Trịnh bị suy vong, ông tiếp tục ra làm quan và có rất nhiều công lao lớn với triều đại Tây Sơn. Được Nguyễn Huệ uỷ thác nhiều trọng trách lớn. Những văn kiện có tính quan trọng đều do một tay Ngô Thì Nhậm soạn thảo, một trong số đó có thể nhắc tới “Chiếu cầu hiền”.
Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1788-1789, theo lệnh của Vua Quang Trung, mục đích của nó là nhằm kêu gọi những người hiền tài ra cộng sự, giúp vua xây dựng triều đại, đặc biệt là những tầng lớp trí thức sĩ phu Bắc Hà.
Mở đầu bài chiếu, tác giả khẳng định vai trò và sứ mệnh của những người hiền tài với quốc gia, dân tộc. Ngô thì Nhậm ví hiền tài như “ngôi sao sáng trên trời cao, mà sao sáng thì ắt chầu về Bắc thần”, cũng như những người tài phải phò trợ cho thiên tử mình. những người hiền mà không được đời sử dụng, dấu đi tài năng cũng như sao bị che đi vẻ lóng lánh, không như ý trời đã định.
Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh về những bậc hiền sĩ ở ẩn khi thời thế suy vi, quốc gia nhiều biến cố. Có người ra làm quan thì cũng không dám lên tiếng, sợ hãi, họ như những kẻ “gõ mõ canh cửa”, “chết trôi trên cạn” để mà trốn tránh việc đời. Tác giả đã đề cập tới vấn đề ấy một cách đầy tinh tế, sử dụng những thành ngữ, từ ngữ có tính tượng trưng để nói mà không xâm phạm tới những người tri thức coi trọng lòng tự trọng. Những lời viết ra khiến cho người nghe, người đọc không khỏi không suy ngẫm, để người hiền tự nhìn lại bản thân, tác giả tin rằng với những người sáng suốt, họ sẽ hiểu những điều mà con chữ phản ánh.
Những lời cầu hiền thiết tha, thành tâm lại vừa khiêm tốn, thể hiện được tấm lòng của một vị vua anh minh được tác giả viết đầy xúc động: “Này trẫm đang ghé chiếu lắng nghệ, ngày đêm mong mỏi……Hay đang thời đổ nát chưa thể phụng sự chăng?”.
Để thuyết phục những tri thức xưa, Ngô Thì Nhậm nêu lên thực trạng quốc gia lúc bấy giờ còn nhiều điều đáng lo ngại. Triều đại lúc này đang buổi đầu lẫm chẫm, pháp luật, kỷ cương còn mắc nhiều khuyết thiếu, chốn biên ải còn trăm điều toan lo, trằn trọc, một mình vừa sao có thể vẹn tròn nếu như không được sự giúp sức, phò trợ từ những vị đức độ, tài năng. Ngặt nỗi, nhân dân còn chưa lấy lại sức, vua cũng vừa mới lên ngôi lòng dân khắp nơi chưa thấu rõ bởi vậy mà ngày đêm lo lắng, những vấn đề cứ chồng chất ngày một thêm. Mọi người đều hiểu được rằng: “Một cái cột không thể đỡ nổi một ngôi nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Mà trong trời đất, bốn phương nơi đâu chắc hẳn cũng có người tài, dù nước lúc hưng, lúc suy những nhân tài thì đâu thể thiếu “…trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này há lại không có một người tài danh nào ra phò tạo điều kiện cho chính quyền buổi bẩn đầu như trầm hay sao?”.
Sau những lý lẽ thấu tình đạt lý ấy, tác giả công tuyên thỉnh nhiều chính sách khác nhau nhưng quy chung một mục đích tuyển mộ kẻ sĩ trong thiên hạ. Mọi người dân không phân biệt nam nữ, thành phần hay tầng lớp nào, nếu như có tài năng, học vấn đều được quyền ứng cử, một tình thần dân chủ được triển khai rõ rệt trong nhân dân, người nào cũng có quyền đồng đẳng góp sức mình cho quốc gia “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và quần chúng. # trăm họ người nào có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư thổ lộ công việc”. những người có nghề giỏi, nghiệp hay, những người có tài năng mà lâu nay bị giấu kín cũng tự tiến cử giúp đời. Tất cả hãy vì nước mà gắng sức mà tụ họp về để cùng nhau mưu lược, kế sách phát triển quốc gia, nước nhà. ” Này trời trong sáng, đất thái bình, chính là lúc người hiền gặp hội phong vân…cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”.
Bài chiếu tuy ngắn gọn mà chứa đựng cả một tấm lòng thiết tha với dân với nước của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Luôn mong cầu sự ấm êm cho nhân dân, hành động vì sự bình yên, thịnh trị của xã tắc, vương triều. Một vị vua suốt đời mình tâm huyết mọi việc vì cuộc sống phồn vinh cho nhân dân. Từng lời, từng chữ viết ra đều thấm đẫm ý thức dân tộc, thấm đẫm tình cảm lớn của một người trị vì cánh cánh nỗi lòng phát triển, dựng xây nước nhà.
“Chiếu cầu hiền” nổi tiếng nói trọng thể, lời văn đầy sự cầu thị khoan dung, khi lại thiết tha, mãnh liệt, hệ thống những lập luận thuyết phục và chặt chẽ. Tác phẩm đã cho thấy trước tầm nhìn xa trông rộng và sự thành tâm của một với vua yêu nước coi trọng hào kiệt, nhân tài. Bài chiếu giúp em hiểu và trân trọng hơn trị giá của trí thức, vai trò của người giỏi đối với quốc gia. Em sẽ quyết tâm trau dồi bản thân, rèn sức luyện tài để sau này làm một công dân có ích cho nước nhà, góp sức tài vào sự phát triển của quốc gia Việt Nam.
2. Bài văn mẫu tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, mẫu số 2 (Chuẩn)
Cầu hiền vốn là chủ trương, chiến lược của nhiều quốc gia phương Đông cổ đại trong đó có Việt Nam, bởi đây là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để kêu gọi hiền tài về phụng sự cho quốc gia. Chiếu cầu hiền ra đời khoảng những năm 1788-1789, khi quốc gia vừa trải qua một thời kỳ tao loạn, những nhà trí thức của triều đại cũ mang tâm lý bi quan, chán nản, bất hợp tác, tư tưởng trung quân mù quáng, không hiểu rõ triều đại mới, nên họ lựa chọn cách trốn tránh, ở ẩn. Trong khi quốc gia lại đang có rất nhiều vấn đề, vương triều mới thành lập căn cơ còn chưa vững, rất cần người tài giúp nước, nhận diện được tình hình đó Nguyễn Huệ đã chủ trương ra chiếu cầu hiền nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà vốn là trí thức của triều đại cũ (Lê-Trịnh) ra giúp nước, đồng thời bình ổn chính trị, tránh những cuộc phản loạn tới từ tàn tích của triều đại cũ. Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm cận thần đắc lực của vua Quang Trung chắp bút thay.
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), quê ở huyện Thanh Trì, Hà Nội, ông đỗ tiến sĩ vào năm 1775, sau đó vào làm quan dưới triều Lê. tới năm 1778 triều Lê-Trịnh sụp đổ, nhận thức được quy luật chuyển giao triều đại là thế tất, nên ông nhanh chóng đi theo triều Tây Sơn, ở đây ông rất được tin sử dụng và có rất nhiều trọng trách lớn trong triều đình.
Cũng như nhiều văn bản chính luận khác, Chiếu cầu hiền cũng có một bố cục hết sức chặt chẽ, trước tiên ở phần mở đầu tác giả nêu ra một chân lý, và chân lý ở đây chính là đạo xử sự của người hiền tài. Rằng người hiền tài, trí thức trên đời đã được định sẵn là phải giúp vua giúp nước, nếu như làm trái đạo lý muôn thuở ấy là trái với thiên đạo sinh ra người hiền. Để củng cố niềm tin cho người đọc, người nghe Ngô Thì Nhậm đã hết sức khéo léo và tinh tế khi sử dụng hai hình ảnh so sánh để trình bày quy luật của mình một cách thuyết phục. Hình ảnh thứ nhất ấy là “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao”, thứ hai ấy là ví thiên tử với “ngôi Bắc Thần”, một vì sao nằm ở vị trí trung tâm bầu trời. Từ hai hình ảnh so sánh ấy Ngô Thì Nhậm muốn truyền tải một thông điệp ngầm rằng nếu như sao sáng xưa nay luôn chầu về Bắc Thần thì trong mối quan hệ tương quan ấy, thế tất rằng người hiền tài cũng phải trở thành sứ thần cho thiên tử. Từ đó ta nhìn thấy được sự thông thái của tác giả khi tinh tế sử dụng quy luật của tự nhiên của tạo hóa để xây dựng và khẳng định quy luật giữa người hiền tài và quân vương, hướng người đọc và người nghe tới ngụ ý rằng đó đã là đạo trời không thể làm khác được. Một tác dụng thứ hai nữa là hình ảnh sao sáng chầu về Bắc Thần là những hình ảnh nằm trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử, một thánh nhân của giới trí thức xưa, chính vì vậy có sức thuyết phục mạnh mẽ với những trí thức Bắc Hà.
Sau khi khẳng định chân lý đạo xử sự của hiền tài, Ngô Thì đi vào tìm hiểu cách xử sự của sĩ phu Bắc Hà và nêu lên thực trạng quốc gia ta lúc bấy giờ. trước tiên về cách xử sự của sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm đã sử dụng rất nhiều những điển tích điển cố và những hình ảnh tượng trưng để nói về cách xử sự của sĩ phu, trí thức với triều đại mới. Trước hết là “ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời” đó là bỏ đi ở ẩn, ví như Nguyễn Du, có người “kiêng dè không dám lên tiếng”, “gõ mõ canh cửa”, hành xử tích cực hơn một tí là ra làm quan, nhưng thái độ cầm chừng, giữ chức vụ thấp kém, không đóng góp gì cho quốc gia. Nhưng dù có lựa lựa chọn khác nhau nhưng điểm chung của họ cũng tựu lại ở một thảm kịch “chết trôi trên cạn mà không biết”. Việc sử dụng nhiều điển tích, điển cố và những hình ảnh tượng trưng này có tác dụng tạo nên sự tế nhị trong phê phán, không khiến người nghe phải xấu hổ, mếch lòng, đặc biệt đây lại là giới tri thức có học vấn và lòng tự trọng vô cùng cao. Hơn thế nữa những sĩ phu Bắc Hà này luôn có một tư tưởng khinh thường Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải, không đủ chữ nghĩa để họ phải phụng sự, việc Ngô Thì Nhậm viết tương tự thể hiện được tầm tri thức sâu rộng, thể hiện tài năng uyên chưng của vua Quang Trung để thuyết phục những sĩ phu này. Sau khi chỉ ra cách xử sự và phê phán ngầm những sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm khởi đầu đi vào tìm hiểu nguyên nhân bằng cách đặt ra hai nghi vấn “trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?” và “Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự chư hầu chăng?”. Việc đặt ra hai nghi vấn liên tục theo thế lưỡng đao nhằm nhấn mạnh sắc thái phủ định, buộc người đọc phải xem xét lại cách xử sự của mình mà ra giúp dân giúp nước cho phải đạo.
Không chỉ nêu lên cách xử sự của sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm còn tiếp tục nêu lên những trạng thái của quốc gia để lay tỉnh những sĩ phu Bắc Hà, đánh động vào tấm lòng yêu nước thương dân, tấm lòng muốn cống hiến cho quốc gia của những trí thức này. Tác giả tuần tự chỉ ra ba cái thực trạng và quốc gia đang phải đối mặt, thứ nhất là tính chất của thời đại đó buổi đầu của nền đại định, mới dẹp yên thù trong giặc ngoài, mới bắt tay vào công cuộc xây dựng nghiệp đế vương cho nên còn nhiều thiếu sót (kỷ cương triều chính còn nhiều khuyết thiếu, công việc ngoài biên đương phải toan lo, dân còn nhọc mệt chưa lại sức, đức hóa của Nguyễn Huệ còn chưa kịp nhuần thấm khắp nơi), có thể nói là khó khăn chồng chất khó khăn. trạng thái thứ hai được Ngô Thì Nhậm nêu lên thông qua chân lý thế tất rằng “một cái cột không thể đỡ nổi một ngôi nhà lớn”, tương quan với đó thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Từ đó khai mở cho những trí thức hiểu rằng một mình Nguyễn Huệ không thể đủ sức để đảm đương tất cả những công việc khó khăn, thử thách chồng chất. Và cuối cùng tác giả nêu lên một thực tế rõ ràng thiên hạ có rất nhiều người tài, cũng như lời Nguyễn Trãi trong Đại Cáo Bình Ngô rằng “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”. Và thông qua 3 tiền đề, 3 trạng thái rõ ràng như thế của quốc gia, từ đó đi tới một mục đích duy nhất là lay tỉnh những sĩ phu Bắc Hà, những hiền tài đang trốn tránh, cầm chừng phải thay đổi cách xử sự của mình, viện trợ Nguyễn Huệ để xây dựng quốc gia.
Sau những chân lý và trạng thái của quốc gia như thế thì Ngô Thì Nhậm đi tới mở ra đường lối cầu hiền và khơi gợi những viễn cảnh tốt đẹp của quốc gia. Nguyễn Huệ đã mở ra những tuyến đường rộng mở cho người hiền tài: Tất cả mọi người từ quan tới dân miễn tà tà có tài năng, mưu lược đều có quyền dâng sớ để tỏ bày việc nước, đóng góp hợp lý sẽ được đề bạt, nếu như viển vông thì cũng không bắt tội; thứ hai là tuyến đường tiến cử cũng rộng mở, dễ thực hiện, cho phép quan lại tiến cử người có tài, có nghề giỏi, rồi tùy mà sử dụng, cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử. Ngô Thì Nhậm cũng nêu lên những tương lai tốt đẹp đang mở ra, trước hết là viễn cảnh “cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”, để khích lệ động viên hiền tài, thể hiện niềm tin vào tương lai quốc gia đang mở ra những thời cơ tốt đẹp cho người hiền “trời trong sáng đất yên bình, cũng là lúc người hiền gặp hội phong vân”.
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm không chỉ thể hiện hiện chủ trương sáng suốt của nhà Tây Sơn mà còn có vai trò động viên, kêu gọi trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng quốc gia, từ đó mang tới những nhận thức đúng đắn về vai trò và trách nhiệm đối với công cuộc xây dựng quốc gia của mỗi một con người, không chỉ riêng gì những bậc hiền tài. Văn bản thành công bởi nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lý lẽ thuyết phục, đặc biệt tuy là văn chính luận nhưng giọng văn rất tha thiết, thành tâm có sức lay động mạnh mẽ.
———————-HẾT————————-
Ngoài bài văn mẫu tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được giới thiệu trên đây, chúng tôi còn giới thiệu tới những em học sinh những bài văn mẫu khác trong Bài văn hay lớp 11 như: Tìm hiểu tác phẩm Chiếu cầu hiền; Hình tượng vua Quang Trung trong bài Chiếu cầu hiền; hoặc những em cũng có thể đón Xem thêm Hoàn cảnh ra đời Chiếu cầu hiền; Soạn bài Chiếu cầu hiền để hiểu hơn về trị giá nội dung tư tưởng tác phẩm này.
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)
Bạn thấy bài viết tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm bên dưới để Trường THCS Đồng Phú có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thcsdongphucm.edu.vn của Trường THCS Đồng Phú
Nhớ để nguồn bài viết này: tìm hiểu bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm của website thcsdongphucm.edu.vn
Chuyên mục: Văn học